Trương Tiểu Phàm tỉnh mộng, mở to hai mắt, đột nhiên thấy một cái miệng há rộng, rồi hai hàng răng nhọn hoắt ghé sát lại trước mặt, nó sợ phát khiếp la lên: “Ối!”
“Khách khách khách…” một tràng cười từ đằng sau vọng lại.
Trương Tiểu Phàm mãi mới hoàn hồn, lúc ấy nhìn rõ thì ra là một con chó vàng to tướng, cao đến nửa người ta, lông vàng láng mướt, nằm trên giường mình, đằng sau con chó là Điền Linh Nhi mặc bộ đồ đỏ bó sát, đang cười gập cả bụng.
Trương Tiểu Phàm len lén liếc con chó to, thấy mình nó thù lù, răng nanh nhọn hoắt, cái lưỡi dài ơi là dài thè lè ra ngoài, bộ dạng rất hung ác. Trương Tiểu Phàm chưa từng nhìn thấy con chó to như vậy, trong lòng có chút hoảng sợ, rồi thấy Điền Linh Nhi nét mặt tươi cười rạng rỡ, bèn lúng búng hỏi: “Sư tỷ, chuyện gì vậy?”
“Chuyện gì ư?” Điền Linh Nhi đang cười nói, chợt nét mặt nghiêm lại, cau mày quát lớn: “Trời đã sáng rồi mà đệ còn hỏi ta chuyện gì? Dậy mau, ta và đệ đi lên núi chặt trúc.”
Trương Tiểu Phàm ngây ra, rồi lạ lùng hỏi: “Sư tỷ cũng phải đi á?”
Điền Linh Nhi hét: “Còn phải nói, đệ tử nhập môn ở chi phái ta ba năm đầu đều phải lên núi chặt Hắc Tiết Trúc, ta mười tuổi mới bắt đầu, năm nay là năm cuối cùng rồi. Ê, đệ vẫn còn ỳ ra trên giường à?”
Trương Tiểu Phàm vội vàng vâng lời, cẩn thận dè dặt vòng qua con chó to, theo mé bên kia giường tụt xuống, hấp ta hấp tấp mặc quần áo.
Điền Linh Nhi hét: “Tiếp này.” rồi ném một con dao chặt củi lại.
Trương Tiểu Phàm giơ hai tay đỡ lấy, đó là một con dao chặt củi thông thường, cầm thấy nằng nặng.
Chuẩn bị xong xuôi, nó hỏi Điền Linh Nhi: “Sư tỷ, có phải gọi đại sư huynh cùng đi không?”
Điền Linh Nhi lườm nó một cái, bảo: “Đệ chưa nghe ta nói là riêng nhập môn đệ tử mới phải làm bài tập hả, bây giờ chỉ có ta và đệ đi chặt trúc thôi, đi nào!”
Nói rồi vẫy tay, Trương Tiểu Phàm còn chưa động đậy, đã thấy trên giường con chó vàng kia đột nhiên đứng phắt dậy, nhảy phốc xuống, ngoáy ngoáy cái đuôi, hướng về phía Trương Tiểu Phàm sủa mấy tiếng “oẳng oẳng”, nhe răng làm bộ hung ác, rồi phóng ra ngoài.
Trương Tiểu Phàm nghe thấy quen tai, sực nhớ hôm qua lúc theo đại sư huynh quay về có nghe thấy hai tiếng chó sủa, xem ra chính là con chó vàng to này, trong lòng bất giác ngấm ngầm tự nhủ: “Thanh Vân Môn thật là lợi hại, đến con chó nuôi cũng lớn hơn nhiều con chó ở thôn mình.”
Nó theo Điền Linh Nhi rời khỏi phòng, trời còn chưa sáng tỏ, vẫn lờ mà lờ mờ, đi ra khỏi hành lang lượn khúc nhìn về phía hậu sơn, đằng xa sương mờ mông lung lảng bảng trong núi.
Hai người và con chó cứ thế đi ra sau núi Đại Trúc Phong.
Hôm qua Trương Tiểu Phàm được Tống Đại Nhân ôm lên đồi, thấy chẳng bao lâu là đến nơi, đường cũng dễ đi, chẳng dè hôm nay tự mình đến, mới đi được nửa đường, đã thấy độ dốc càng lúc càng lớn, lộ trình cũng xa hơn mình tưởng tượng rất nhiều.
Quay sang nhìn Điền Linh Nhi ở bên cạnh, hôm nay cô bé không dùng Hổ Phách Chu Lăng, nhưng vẫn bước đi nhẹ nhàng, thân hình nhỏ nhắn mặc bộ đồ đỏ lướt trên đường núi rất nhanh nhẹn. Con chó to màu vàng kia thì chẳng phải nói, chạy trước chạy sau, lúc thì xuyên lên, lúc thì lùi lại, có lúc còn luồn vào vạt rừng bên đường, chẳng biết để làm trò gì, lát sau, cây cỏ lao xao, lại thấy từ một chỗ khác chui ra, dáng điệu rất là hưng phấn hoạt bát.
Đi tiếp chừng nửa canh giờ, Trương Tiểu Phàm mệt nhoài thở hồng hộc, hai chân đau mỏi, rã rời cả người.
Điền Linh Nhi đi trước, thấy bộ dạng nó như thế thì hừ một tiếng bảo: “Thật vô dụng, dừng lại nghỉ tý vậy!”
Trương Tiểu Phàm vội gật đầu, đặt mông ngồi xuống, ra sức thở, con chó to màu vàng lúc ấy lại chẳng thấy đâu, không biết đã chui vào xó xỉnh nào rồi.
Trương Tiểu Phàm thở một lúc, hô hấp mới dần dần điều hoà. Nó ngồi trên sơn đạo, nhìn xuống dưới, thấy Đại Trúc Phong vươn cao sừng sững, trông có vẻ cô ngạo bên cạnh những dãy núi gần đó đều thấp hẳn xuống.
“Sư tỷ, đệ có một việc muốn hỏi, không biết là…”
Điền Linh Nhi nghe giọng điệu nó có chút e dè bèn đưa mắt nhìn sang, trong lòng rất là đắc ý, lơ đãng dùng tay sửa lại mớ tóc, nét mặt ngay ngắn, nghiêm trang nói: “Đệ hỏi đi!”
“Tại sao chúng ta lại coi chặt trúc là bài tập! Đệ nghĩ bài tập phải là tu hành đạo pháp chứ?”
Điền Linh Nhi cong môi: “Đệ thì hiểu cái gì, với người tu chân sức khoẻ là quan trọng nhất. Mẹ nói nếu thể trạng không tốt, thì dù có diệu pháp vô thượng cũng khó mà tu tập được. Thanh Vân Môn chúng ta bắt nguồn từ Đạo giáo, rất coi trọng dưỡng sinh kiện thể, tu tập đạo pháp tới chỗ sâu xa, thể trạng càng quan trọng. Nói ngay như kỳ thuật tối cao của bản môn là Thần Kiếm Ngự Lôi Chân Quyết…”
Trương Tiểu Phàm chợt run bắn, mặt biến sắc.
Điền Linh Nhi lạ lùng hỏi: “Đệ làm sao vậy?”
Trương Tiểu Phàm hồi tâm, sắc mặt u ám bất định, lẩm bẩm nói: “Không, không có gì, đệ nghe cái tên này có vẻ dài dòng ghê gớm quá.”
Điền Linh Nhi trợn mắt nhìn nó, bảo: “Đương nhiên là ghê gớm, đây chính là một trong những tuyệt kỹ trấn sơn của Thanh Vân Môn, chẳng có mấy người luyện được đâu. Nghe cha nói, thi triển chân quyết này, phải lấy chính thân mình để dẫn, rồi dùng thần binh lợi nhẫn, dẫn dụ cửu thiên thần lôi, thiên uy thần lực, làm đối phương tan tác, uy lực tuyệt luân.”
Trương Tiểu Phàm thở dài, nói: “Thế à!”
Điền Linh Nhi lại tiếp: “Thì đệ thử nghĩ xem! Tuy có chân quyết hộ thân, nhưng những uy thế cỡ cửu thiên thần lôi, người thường hễ đụng phải là hoá ngay thành tro bụi, người thi triển thuật ấy cố nhiên tu hành cực thâm sâu, nếu thể trạng không tốt, một chốc một lát chỉ e là chính mình bị thần sấm vụt chết trước ấy chứ, còn nói gì đến đánh cho ai tan tác?” Cô bé liếc nhìn Trương Tiểu Phàm, nói: “Vì vậy cha bảo đệ làm bài tập này chính là vì muốn tốt cho đệ, thế mà đệ còn giữ cái thái độ không bằng lòng.”
Trương Tiểu Phàm giật thót, nhẩy cẫng lên vội nói: “Làm gì có chuyện đó, đệ hoàn toàn, hoàn toàn không dám có chút ý bất kính nào với sư phụ, càng không có ý không bằng lòng. À! Đệ đã nghỉ đủ rồi, thôi đi, đi!”
Nói đoạn vung con dao chặt củi, khoa chân bước thình thịch, đi lên trên núi, tốc độ đã nhanh hơn. Điền Linh Nhi nhìn theo sau nó, khe khẽ mỉm cười, rồi cũng đi lên theo.
Khó khăn lắm mới bò lên đến sườn đồi, Trương Tiểu Phàm nhịp thở đứt đoạn, thấy mé trước rừng trúc, con chó to màu vàng đó chẳng biết đã phục sẫn đấy từ khi nào, trông thấy hai đứa lên tới nơi, nó chõ mõm kêu “oẳng oẳng” mấy hồi, cũng không nhổm dậy, lại ngoảnh đầu đi.
Trương Tiểu Phàm ngây ra một lát, nói: “Nhanh quá nhỉ!”
“Đệ nói Đại Hoàng hả?” Điền Linh Nhi đi từ đằng sau lên, không đỏ mặt, không thở gấp, cất tiếng hỏi.
Trương Tiểu Phàm chỉ con chó to: “Nó tên là Đại Hoàng à?”
Điền Linh Nhi đáp: “Phải, đệ đừng coi thường nó, nó lợi hại lắm đó!”
Trương Tiểu Phàm lẩm bẩm: “Thì vậy, xem cái bộ dạng nó to như thế là biết, ít nhất cũng đã nuôi được cỡ hai chục năm.”
Điền Linh Nhi xì một tiếng: “Đâu có!”
Trương Tiểu Phàm lạ lùng nói: “Nó chưa được hai chục năm à! Đại Hoàng quả là chóng lớn.”
Lúc ấy Đại Hoàng ở đằng trước hướng về Trương Tiểu Phàm mà sủa rất là dữ dội.
Điền Linh Nhi bảo: “Ta nói đâu có ít năm như thế. Chà, để ta tính xem, hình như lúc tứ sư huynh đến đã có rồi, vậy là cỡ bảy mươi năm, không đúng, tam sư huynh nói lúc huynh ấy đến nó đã ở đây rồi, vậy thì phải đến chín mươi bảy năm. Á!”
Cô bé bỗng thốt lên, làm Trương Tiểu Phàm giật thót mình, vội vàng hỏi: “Sao vậy?”
Điền Linh Nhi vui hơn hớn nói: “Ta nhớ ra rồi, lúc nhỏ có lần mẹ cãi nhau với cha, nói năng rất ghê gớm, bảo là sẽ đem con chó vàng mà cha nuôi từ bé đến lớn đem ra giết thịt nấu canh ăn, làm cha tức gần chết, Đại Hoàng cũng sợ đến nỗi mấy ngày liền không dám về nhà!”
Trương Tiểu Phàm tò mò hỏi: “Đại Hoàng không dám về nhà hử?”
Điền Linh Nhi đáp: “Đúng! Đại Hoàng sống đã rất nhiều rất nhiều năm, hiểu tính nết con người lắm, biết mẹ ghê gớm, sợ bị rơi vào tay mẹ thật, bèn chuồn mất. Thế nào, ghê không?”
“Ghê!” Trương Tiểu Phàm nói rất thật lòng, cũng không biết là nói Đại Hoàng, hay là nói sư nương. Nó nhìn kỹ con chó to ấy thêm một chút, Đại Hoàng chẳng thèm để ý, phì mũi một cái rõ to, quẫy quẫy đuôi, rồi nghiêng đầu, lười biếng ngả ra mặt đất.
Hai đứa lúc ấy đã đi đến trước rừng trúc, Trương Tiểu Phàm nói với Điền Linh Nhi: “Sư tỷ, lúc đệ vừa đến Thông Thiên Phong, còn nhìn thấy một con quái thú to hơn Đại Hoàng rất nhiều lần, nghe đại sư huynh gọi nó là Thuỷ Kỳ Lân, Đại Hoàng có phải là linh thú giống như thế không?”
Điền Linh Nhi đi vào rừng trúc, lắc đầu đáp: “Không phải, linh tôn là dị thú thời thượng cổ, là linh chủng hồng hoang, vượt xa Đại Hoàng, không thể so sánh được.”
Trong lúc nói chuyện, cô bé đã dẫn Trương Tiểu Phàm đi xuyên qua rừng, lát sau tới một nơi tương đối nhiều thân trúc gầy, Hắc Tiết Trúc nơi đây đều chỉ lớn bằng cỡ cổ tay, rất là mảnh mai.
“Ở đây đây, đệ từ nay về sau, trong vòng ba tháng, mỗi ngày chặt một cây là được rồi.” Điền Linh Nhi nghiêm trang bảo.
“Nhỏ thế này mà chỉ chặt một cây thôi ư?” Trương Tiểu Phàm ngạc nhiên hỏi.
Điền Linh Nhi hừ một tiếng, bảo: “Đệ chặt thử xem.”
Trương Tiểu Phàm gật đầu, cầm con dao chặt củi lên đi đến trước một cây trúc mảnh mai, ước lượng hươ dao một phát là đốn ngã. Chỉ nghe một tiếng trong trẻo vang lên, con dao như chém phải đá, dội lại mạnh đến nỗi lòng bàn tay Trương Tiểu Phàm phát tê dại. Cây trúc gầy bị nó chặt nghiêng xéo về trước, tích tắc sau bật trở lại, Trương Tiểu Phàm không kịp tránh, bị cành trúc quật vào đầu đau điếng, để lại một vệt đỏ bầm.
“Khách khách…” Điền Linh Nhi ôm bụng cười, một lát sau mới nhăn nhó bảo: “Đệ ở đây chặt nhé! Ta phải đi làm bài tập của ta đây.” Nói rồi vừa cười vừa quay mình bỏ đi.
Trương Tiểu Phàm xoa xoa chỗ bị quật đau trên mặt, thấy trên thân trúc, nơi nó vừa chém phải, lộ ra một vệt trăng trắng, bất giác thở ra một hơi lạnh buốt.
Sáng hôm nay, Trương Tiểu Phàm một mình ở đây đối mặt với cây Hắc Tiết Trúc, dùng đủ mọi cách chặt, chém, cưa, mài, đè, bẻ, đến hai canh giờ, mặt trời đã lên giữa thinh không, toàn thân mồ hôi đầm đìa, chân tay mỏi nhừ vô lực, cũng chỉ xẻ được một cái lỗ be bé chừng hai phân trên thân cây trúc.
Lúc ấy một tràng tiếng hát đưa tới, Điền Linh Nhi cất tiếng ca bài gì chẳng biết, nhảy chân sáo quay trở lại, thấy bộ dạng bối rối của Trương Tiểu Phàm, lại nhìn cây Hắc Tiết Trúc, lắc lắc đầu, vung con dao lên, có vẻ như định chặt.
Trương Tiểu Phàm vội vàng hỏi: “Sư tỷ, làm gì vậy?”
Điền Linh Nhi sốt ruột bảo: “Thì giúp đệ chặt chứ gì nữa!”
Trương Tiểu Phàm lắc đầu thật mạnh, thở hộc ra: “Không cần đâu, đa tạ sư tỷ. Đây là bài tập của đệ, đệ sẽ tự mình hoàn thành.”
Điền Linh Nhi hừ một tiếng, chỉ lên mặt trời, nói: “Đệ biết lúc này là lúc nào rồi không?” Trương Tiểu Phàm tính tình cứng cỏi, nghiến răng đáp: “Dù phải chặt đến tối mịt cũng được…”
“Đồ ngu!” Điền Linh Nhi vụt chống nạnh mắng, Trương Tiểu Phàm kinh ngạc, nhất thời không thốt nên lời, chỉ ngây ra mà nhìn vị sư tỷ.
Điền Linh Nhi uy phong lẫm lẫm, rất có cái phong phạm của mẹ, nổi giận: “Ngươi không xem thời gian, cũng không nghĩ gì đến người khác. Ngươi chặt đến tối, chẳng lẽ muốn ta cũng phải đợi ngươi đến tối hay sao? Nếu ngươi thật sự cương quyết như thế, về sau mỗi ngày nên hết sức cố gắng, nghĩ cách nào để trong hai canh giờ có thể làm xong bài tập, khỏi phải nói ra những lời dấm dớ chặt đến tối cái gì đó!”
Nói xong, cô bé vung dao lên, dao rít phá không, “phách phách phách phách” bốn tiếng, cây trúc theo tiếng rít đổ rạp, Trương Tiểu Phàm đứng trơ mắt trông.
Điền Linh Nhi liếc nhìn nó, lạnh lùng bảo: “Về thôi!” đoạn đi ra bìa rừng. Trương Tiểu Phàm trong lòng vừa thẹn vừa ngượng, âm thầm hạ quyết tâm, ngày sau nhất định phải hết sức cố gắng, làm bài tập thật tốt.
Nó lê tấm thân mệt mỏi về tới nơi ở trong Đại Trúc Phong thì đã là chính ngọ, Điền Linh Nhi chẳng nói chẳng rằng đi vào hậu điện Thủ Tĩnh Đường.
Trương Tiểu Phàm ngây đuỗn, khó khăn lắm mới cất nổi bước chân về phía phòng riêng, đến lối vào hành lang uốn khúc thì gặp đại sư huynh Tống Đại Nhân đang đứng ở đó.
Tống Đại Nhân khoé miệng lộ nét cười, nói: “Sao rồi, tiểu sư đệ, mệt lắm hả?”
Trương Tiểu Phàm nhệch ra cười, lắc lắc đầu. Tống Đại Nhân thấy nó tuổi còn nhỏ mà tính tình cương nghị, bèn thôi cười, đưa nó về đến phòng, bảo: “Trong nhà bếp thường có sẵn nước nóng, sau này hễ đệ về thì hãy tự vào lấy nước rửa ráy. Lát nữa là ăn cơm rồi, đệ nghỉ ngơi một lúc đi, ta sẽ đến gọi đệ sau, ăn cơm xong chúng ta còn phải làm bài tập nữa!”
Trương Tiểu Phàm giật thót, hỏi: “Chiều vẫn còn bài tập nữa ư?” Tống Đại Nhân thấy nó phản ứng mạnh như thế thì sững ra một lát, rồi lập tức tỉnh ngộ, cười bảo: “Ồ, ta nói sai, chiều là lúc tu tập đạo pháp của đệ tử chi phái, từ hôm nay ta sẽ truyền thụ cho đệ nhập môn đạo pháp.”
Trương Tiểu Phàm lúc này mới thở phào, lòng vừa mừng vừa sợ, khe khẽ hỏi: “Đại sư huynh, những đạo pháp ấy rất lợi hại, có khó học không?”
Tống Đại Nhân mỉm cười: “Tu hành đến chỗ sâu xa, tất nhiên là lợi hại vô cùng. Còn có khó học hay không, thì phải tuỳ vào tư chất ngộ tính của từng người. Tư chất kém một chút cũng không sao, đệ nghe sư phụ nói tối hôm qua rồi đấy: Đạo hải vô nhai, Cần lệ vi chu. Chỉ cần đệ chịu khó kiên trì chăm chỉ, chuyên cần tu tập, thì dù có khó đến đâu đi nữa, cũng có thể luyện thành.”
Trương Tiểu Phàm gật đầu thật mạnh. Đến giờ cơm trưa hôm đó, Điền Bất Dịch hỏi qua về tình hình bài vở của Trương Tiểu Phàm, Điền Linh Nhi ngồi bên thêm mắm dặm muối kể xấu Trương Tiểu Phàm một thôi một hồi, đến nỗi thằng bé đỏ hết cả mặt, không dám ngẩng đầu lên.
Điền Bất Dịch nghe con gái kể, lắc đầu hoài, cuối cùng khẽ phẩy tay, nói thon lỏn: “Ăn cơm.”
Điền Bất Dịch chẳng buồn mắng Trương Tiểu Phàm, nhưng Trương Tiểu Phàm lại nghĩ, sư phụ rất quan tâm mình, mình làm ăn chẳng ra gì mà sư phụ không hề trách mắng, khoan hồng đại lượng đến như thế, đúng là một bậc ân sư hiếm thấy trên thế gian. Nó tự thẹn với lòng, không dám nói năng gì nữa, âm thầm phát thệ, sau này nhất định phải chuyên cần tu tập để đền ơn sư phụ.
Sau bữa cơm, Điền Bất Dịch lại theo cái lối đi chữ bát vốn có, lắc la lắc lư trở về Thủ Tĩnh Đường. Những đệ tử khác vội vàng đi đến Thái Cực Động, còn Tống Đại Nhân thì cùng Trương Tiểu Phàm về phòng, bảo: “Tiểu sư đệ này, bản phái đạo pháp rất trọng căn cơ, đệ mới nhập môn, ta hãy truyền cho đệ đạo thuật cơ sở, đệ nhớ kỹ rồi thì sau này phải tự hành tu luyện, nếu có chỗ nào chưa rõ thì hỏi ta, biết chưa?”
Trương Tiểu Phàm gật đầu lia lịa, trong lòng xúc động.
Tống Đại Nhân nét mặt trang trọng, nghiêm nghị nói: “Còn một chuyện nữa, ta phải cảnh báo đệ: kỳ thuật bản môn tinh thâm thần diệu, tà ma yêu nhân lúc nào cũng rình mò. Đệ phải lập trọng thệ, sau khi đệ học xong, trừ phi là đệ tử bản môn, quyết không được truyền cho người ngoài.”
Trương Tiểu Phàm giật mình hoảng hốt, nhưng lập tức hiểu ra, khuôn mặt bé nhỏ tỏ vẻ kiên quyết, đáp: “Dạ. Có trời xanh trên cao, đệ tử Trương Tiểu Phàm ngày sau nếu tiết lộ bí mật đạo pháp của Thanh Vân Môn, tất sẽ bị sét giáng đỉnh đầu, chết không có chỗ chôn.”
Tống Đại Nhân mỉm cười gật đầu, bảo nó ngồi xuống trước bàn, rồi dạy cách đả toạ, mặc tưởng, lại nói sơ qua cách vận hành kinh mạch và tinh khí, cuối cùng là truyền cho nó pháp môn tu hành tầng thứ nhất của Thái Cực Huyền Thanh Đạo .
Thái Cực Huyền Thanh Đạo là căn bản của tất thảy những diệu pháp kỳ thuật trong Thanh Vân Môn, cũng chính là điều mà Thanh Vân Tử đã ngộ ra từ cuốn cổ thư kia hai ngàn năm về trước, trải qua quá trình tinh nghiên của các tông sư Thanh Vân Môn, cho đến nay, đã trở thành một đạo pháp vô thượng, định đoạt được cả chuyện thiên địa tạo hoá.
Thái Cực Huyền Thanh Đạo gồm ba cảnh giới Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh. Đệ tử Thanh Vân Môn, kể cả những người thông minh tài trí, suốt cuộc đời giỏi lắm là đột phá được đến Ngọc Thanh Cảnh, nhưng cũng chỉ loanh quanh tại đó, mà tu hành được đến tầng cao nhất của Ngọc Thanh Cảnh cũng đã là một việc hiếm thấy xưa nay.
Trong Thanh Vân Môn, người đông đến gần một nghìn, nhưng có thể đột phá được Ngọc Thanh Cảnh để tiến lên Thượng Thanh Cảnh, ngoài chưởng môn Đạo Huyền Chân Nhân, bất quá có chừng hơn mười người nữa mà thôi. Nhưng chỉ với mười mấy người này, Thanh Vân Môn đã đứng được vào hàng những môn phái có thực lực mạnh nhất thâm ảo nhất trong giới tu chân ngày nay. Còn về Thái Thanh cảnh giới vô thượng trong truyền thuyết, nghe nói mới có mỗi Thanh Diệp tổ sư là tu tập tới. Tống Đại Nhân lần đầu làm thầy, thấy Trương Tiểu Phàm hai tay chống má, lắng nghe chăm chú, bất giác cao hứng, ăn nói rất đĩnh đạc.
Quá trình tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo là từ dễ tới khó, phần lớn mọi người ngay năm đầu tiên đều có thể tựu thành tầng thứ nhất của Ngọc Thanh Cảnh, nhưng sau đó trở đi bắt đầu đụng phải những chỗ thâm thuý khó hiểu; với tầng thứ hai, người bình thường phải tu tập mất năm năm; tầng thứ ba lại càng một trời một vực, người nào tư chất hơi kém thì cả đời sẽ dừng mãi ở chỗ này, người khá hơn một chút tu tập đến năm sáu mươi năm cũng không phải là chuyện lạ.
Trương Tiểu Phàm nghe mà há hốc miệng, Tống Đại Nhân mủm mỉm cười, lại giảng tiếp.
Pháp môn tu hành chủ yếu của Thái Cực Huyền Thanh Đạo, đến tầng thứ ba là hầu như truyền thụ hết, từ đó trở đi phần nhiều phải dựa vào tu vi và tư chất của bản thân, sư trưởng trình độ cao thâm có thể chỉ điểm chút ít, nhưng cũng chỉ là về mặt kinh nghiệm, để đệ tử tránh rẽ theo đường vòng mà thôi. Đương nhiên, cái gọi là đường vòng ở đây phải tính bằng đơn vị thời gian từ một trăm năm trở lên.
Trong Thái Cực Huyền Thanh Đạo, tu luyện đến tầng thứ tư của Ngọc Thanh Cảnh là tựu được căn bản của mọi pháp thuật, có thể bắt đầu đồng thời tu tập những kỳ thuật diệu pháp khác và rèn tập bảo bối của mình.
Bảo bối vốn có nguồn gốc lâu đời, trong thần thoại truyền thuyết, các vị thần linh phần nhiều đều có bảo bối riêng, uy lực tuyệt luân. Còn trong nhân gian, những người tu chân luyện đạo dùng nó để chế ngự dần thiên địa tạo hoá, uy lực cũng rất đáng kể, nhỏ thì có thể đằng không, cưỡi gió bạt mây mà đi, lớn thì có thể làm trời rung đất chuyển, phá được núi ngăn được sông.
Vật liệu để luyện bảo bối cũng lắm màu nhiều vẻ, thiên kỳ bách quái, nhưng có điều, vật liệu sẽ quyết định uy lực của bảo bối sau khi luyện thành, nếu lấy sắt thường để thi triển Thần Kiếm Ngự Lôi Chân Quyết, thì chưa kịp tấn công kẻ địch, kiếm đã cùng với chủ nhân biến thành tro bụi rồi.
Đối với môn hạ Thanh Vân, nhớ chuyện xưa Thanh Diệp tổ sư lấy được cổ kiếm Tru Tiên trong Huyễn Nguyệt Động Phủ rồi cùng nó tung hoành khắp nơi, thiên hạ hầu như không có địch thủ, bọn hậu bối ngưỡng mộ dư thế, thành ra quá nửa đều tu luyện tiên kiếm, mãi ngàn năm sau, kiếm khách vẫn không ngừng xuất hiện. Việc chọn kiếm làm bảo bối gần như là quy tắc bất thành văn của Thanh Vân Môn, nên có đổi tên thành Thanh Vân Kiếm Phái thì cũng không phải là bất khả.
Nói tới đây, lại phải nhắc một chút đến thủ toạ Đại Trúc Phong là Điền Bất Dịch, lão vốn luyện kiếm, pháp khí hộ thân Xích Linh cũng là một trong các danh kiếm của Thanh Vân Môn, nhưng chẳng hiểu sao, lão không hề có ý khuyến khích bọn đệ tử tu luyện tiên kiếm.
Không chỉ có vậy, lão còn thường xuyên “xúi giục” mọi người rèn tập các loại pháp bảo khác, khiến dư luận trong Thanh Vân Môn dấy lên ít nhiều trách móc, nhưng một là chẳng có quy định nào nói rằng không được, hai là đệ tử của Điền Bất Dịch tư chất tầm thường, số lượng cũng ít, nên mọi người cứ để mặc lão.
Trong các đệ tử Đại Trúc Phong, đại sư huynh Tống Đại Nhân tu hành súc tích nhất, đã luyện tới tầng thứ năm của Ngọc Thanh Cảnh trong Thái Cực Huyền Thanh Đạo, sát ngay sau là lão tứ Hà Đại Trí, luyện tới tầng thứ tư. Tuy thời gian y nhập môn ngắn hơn Ngô Đại Nghĩa, Trịnh Đại Lễ, nhưng trong số các đệ tử ở đây y thuộc hạng thông minh nhất, vì vậy tuy đi sau mà lại về trước.
Trong khi ấy, lão nhị Ngô Đại Nghĩa, lão tam Trịnh Đại Lễ, lão ngũ Lữ Đại Tín, lão lục Đỗ Tất Thư, đều đang chật vật ở tầng thứ ba Ngọc Thanh Cảnh.
Còn tiểu sư muội Điền Linh Nhi thì thông tuệ hơn người, từ nhỏ đã được cha mẹ hết lòng giáo hối, tuy mười tuổi mới bắt đầu bài tập chặt trúc, nhưng tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo đã khá nhiều năm.
Cô bé còn nhỏ, nhưng năm mười ba tuổi đã luyện tới tầng thứ tư Ngọc Thanh Cảnh, có thể khu dụng pháp bảo, là một trong những hài đồng khôn sớm nổi tiếng ở Thanh Vân Môn, cha mẹ yêu chiều, các vị sư huynh quan tâm thương mến. Tô Như cũng đã đem dải Hổ Phách Chu Lăng trứ danh của mình tặng cho con gái làm pháp bảo phòng thân.
“Sư tỷ thật là giỏi!” Trương Tiểu Phàm nghe tới đây, bất giác thốt lên cảm thán.
Tống Đại Nhân mỉm cười nói: “Không sai, tiểu sư muội rất thông minh, đối với việc tu chân lại có thiên phú, sư phụ sư nương truyền thụ điều gì, sư muội vừa nghe là nhớ liền, tư chất hơn hẳn bọn huynh, hiện nay chỉ vì thời gian tu đạo còn ngắn, hoả hầu chưa đủ, sau này có thêm thời gian, thành tựu của sư muội nhất định sẽ không thể tưởng tượng được, vượt xa bọn huynh. Chi phái Đại Trúc Phong phát dương quang đại hay không, là nhờ ở sư muội.”
Nói đoạn, trong ánh mắt y khấp khởi hi vọng, hiển nhiên là rất yêu mến tiểu sư muội kiều mỵ dễ thương này.
Tiếp theo, Tống Đại Nhân lại chỉ cho Trương Tiểu Phàm những điểm cần chú ý trong quá trình tu hành, sau đó nghiêm nghị bảo: “Tiểu sư đệ, cuối cùng có một chuyện, ta nhất định phải nói cho đệ hay: việc tu hành của bản môn quý là ở chỗ tuần tự nhi tiến, đi bước nào chắc bước đó. Nếu tham lam muốn vượt nhanh, chỉ e là lòng tham chưa được thoả mãn, đã phát sinh đại hoạ. Thành công hay thất bại là do số mệnh, không cần phải cưỡng cầu. Đối với yêu ma ngoại đạo, dị đoan tà thuật, ham muốn không được đáp ứng thì đều muốn tốc thành, cuối cùng quá nửa là bị trời phạt, bi thảm lắm. Đệ phải cần thận đấy.”
Trương Tiểu Phàm kinh hãi, vội đáp: “Vâng, đại sư huynh, đệ hiểu rồi.”
Tống Đại Nhân gật gật đầu, đứng dậy nói: “Hẵng như vậy đã! Thái Cực động đằng hậu sơn, chỉ có đệ tử đã tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo từ ba tầng trở lên mới được bước vào. Trước đó, đệ hãy tạm ở phòng riêng rèn luyện! Chỗ này cũng rất thanh tịnh, sư phụ sư nương ít khi lại, đệ hãy tự mình cố gắng nhé.”
Trương Tiểu Phàm đứng dậy đáp: “Đa tạ đại sư huynh.”
Tống Đại Nhân nhe răng cười, vỗ vỗ đầu nó, rồi quay mình bước đi.
Trương Tiểu Phàm tiễn Tống Đại Nhân xong, trở vào trong phòng, đóng kỹ cửa lại, lòng mừng không nói hết được, đến những mệt nhọc lúc chặt trúc hồi sáng cũng chẳng biết đã tan biến đi đằng nào.
Nó hô hấp thật sâu, rồi tĩnh tâm, chầm chậm trèo lên giường, theo đúng tư thế đả toạ mà Tống Đại Nhân vừa dạy, nhắm nghiền hai mắt, nhẩm lại một lượt từ đầu đến cuối nội dung tầng thứ nhất trong Ngọc Thanh Cảnh của Thái Cực Huyền Thanh Đạo mà Tống Đại Nhân vừa truyền thụ, đang lúc định theo đó tiến hành tu tập, thốt nhiên trong lòng chợt nhớ ra điều gì, hai mắt bừng mở, thất thanh la: “Không phải rồi!”
Những gì mà Tống Đại Nhân vừa dạy cho nó là pháp môn tu tập căn bản thô sơ nhất trong Thái Cực Huyền Thanh Đạo, công dụng chỉ nằm ở hai chữ: luyện khí. Người tu tập phải tĩnh toạ, mở rộng tâm niệm, khống chế những phiền não, dẫn linh khí của trời đất vào vần chuyển vòng tròn trong người, tiến tới cảm ngộ được thiên địa tạo hoá. Nếu có thể dẫn linh khí đó liên thông khắp ba mươi sáu huyệt đạo, thì kinh mạch trong mình sẽ vững vàng, có thể tu luyện lên cảnh giới cao hơn.
Pháp môn tu tập này vốn đã trải qua mấy ngàn năm được Đạo giáo gọt giũa, tuyệt không có điểm nào sai sót đáng ngờ cả, nhưng giờ đây trong lòng Trương Tiểu Phàm như có phong ba bão táp vần vũ không ngừng. Tất cả chỉ là vì những gì hôm nay nó nghe thấy trái ngược hoàn toàn với bộ khẩu quyết và phương thức tu hành mà Phổ Trí hoà thượng đã giảng cho nó ngày hôm đó.
Trong cái đêm trước khi xảy ra thảm án ở thôn Thảo Miếu, lúc Phổ Trí truyền khẩu quyết cho nó, đã dặn nó rõ ràng rằng, tu chân luyện khí nhất thiết phải tách hẳn mình khỏi mối liên hệ với ngoại giới, để ngộ ra tự tính, cái đó gọi là: chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ tập diệt đạo; vô trí diệc vô đắc. Cái đạo lý thâm thuý khô khan này, Trương Tiểu Phàm tức thời không thể lý giải cho minh bạch, nhưng nó nhận thấy rõ là hai loại pháp môn tu tập này căn bản hoàn toàn khác nhau, lòng dạ lúc ấy rối như tơ vò, không biết phải làm thế nào mới được.
Thực ra Trương Tiểu Phàm không hề biết, Thái Cực Huyền Thanh Đạo cố nhiên là diệu pháp vô thượng của Đạo gia, nhưng bộ khẩu quyết mà Phổ Trí dồn bao nhiêu ước nguyện to lớn, ký thác kỳ vọng cả một đời để truyền cho nó lại cũng là pháp đạo chí cao của Phật môn, gọi là Đại Phạm Bát Nhã.
Nói đến hai loại đại pháp, hai cách tu tập hoàn toàn khác nhau này, phải bắt đầu từ căn nguyên.
Phật môn và Đạo gia, lịch sử đều lâu đời, nhưng trước sau không hề đi lại với nhau, thuật tu chân lại khởi nguồn từ trào lưu tư tưởng của mỗi nhà. Chẳng hạn như Đạo gia, tôn chỉ của nó nằm ở một chữ Đạo, diễn tả ra là: đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bão dương, trung khí dĩ vi hoà.
Đạo giáo khởi nguồn từ tư tưởng Đạo gia, đến ba cảnh giới của Thái Cực Huyền Thanh Đạo cũng là lấy từ Tam Thanh gồm Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh chỉ Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn và Đạo Đức Thiên Tôn trong thần thoại Đạo gia. Tu chân của Đạo giáo chú trọng đến thiên địa nhất tức, thân thể hoà với tự nhiên, dùng thân mình để chế ngự tự nhiên tạo hoá, biến ra đại uy lực.
Đối với Phật môn, tôn chỉ của nó lại nằm ở chỗ “Sự ứng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm, nhất thiết vạn pháp, bất ly tự tính.” Lại nói: Hà kỳ tự tính, bản tự sinh diệt; Hà kỳ tự tính, bản tự cụ túc; Hà kỳ tự tính, bản vô động dao; Hà kỳ tự tính, năng sinh vạn pháp! Tu chân của Phật giáo chú trọng đến lĩnh hội tự thân, nhận ra ngũ uẩn chính là đạo lý “có thể lấy bát nhã mà độ ra trí tuệ bốn phương tám hướng”.
Tư tưởng đạo Phật khác hẳn, pháp môn tu tập tất nhiên cũng đi theo hướng ngược lại, chỉ có điều mấy nghìn năm nay nhà nào cũng giữ bí mật riêng, không để cho người ngoài biết. Giờ phút này thằng bé Trương Tiểu Phàm ở trên Đại Trúc Phong của Thanh Vân Môn, bị việc này làm cho đầu óc rối tinh rối beng.
“Rốt cục đằng nào là đúng đây?” Trương Tiểu Phàm nhảy xuống khỏi giường, đi đi lại lại trong phòng, nó thấy trong đầu ong ong, nghĩ ngợi lung tung, lại không dám hỏi ai, cuối cùng đành thờ thẫn ngồi ở mép giường, thở dài rồi im lìm lặng lẽ.
Nó vốn chẳng phải là đứa thông minh, con nhà nông dân, tuổi lại còn nhỏ, không có gì là hiểu biết quyết đoán, những việc lớn như thế này nó nghĩ tới nghĩ lui, mất bao nhiêu thời gian vẫn không hiểu ra được tại sao lại như thế. Cuối cùng, Trương Tiểu Phàm tự nhủ với mình: “Thôi, đằng nào lúc đầu Phổ Trí sư phụ cũng chẳng nhắc gì đến tình huống này, ta luyện cả hai thứ vậy, cũng thế cả.” Rồi không nghĩ ngợi nhiều nữa, trong lòng bỗng thấy thoải mái, lại trèo lên giường, đả toạ mặc tưởng, trước tiên luyện tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo.
Có điều nó nghĩ thì thấy dễ dàng, thực hành rồi mới thấy hoàn toàn là một cảnh khác hẳn. Luyện khí theo Thái Cực Huyền Thanh Đạo phải mở hết thất khiếu và các lỗ chân lông trên toàn bộ cơ thể, dẫn linh khí của trời đất nhập vào mình vận hành theo kinh mạch, việc luyện tập này sẽ củng cố nguyên khí thân thể và kinh mạch nội lạc; Đại Phạm Bát Nhã lại đòi hỏi phải nhập vào cảnh giới tịch diệt, phong bế ý tưởng và hành thức, để thân mình hoà vào với thế giới, tự mình ngộ ra mình, dùng chân nguyên thâm tâm để cố bản bồi nguyên.
Hai bộ pháp môn hoàn toàn tương phản, làm Trương Tiểu Phàm khổ không nói hết. Trong vòng ba tháng sau đó, ngoài việc mỗi ngày bất kể mưa gió lên núi chặt trúc, nó đều dụng tâm tu luyện hai bộ đại pháp môn này. Chỉ có điều nó luyện Thái Cực Huyền Thanh Đạo vừa mới được chút thành tựu, khổng khiếu toàn thân vừa mới mở ra, linh khí nhập thể, thì tiếp ngay sau, Đại Phạm Bát Nhã lại đóng mạnh tất cả các chỗ đó lại, nhập vào cõi tịch diệt, làm cho bao nhiêu nỗ lực lúc trước, hầu như đều đổ sông đổ bể cả.
Sau ba tháng, đột nhiên một hôm Điền Bất Dịch chợt nổi hứng, hỏi han tình hình tu đạo của Trương Tiểu Phàm, ai ngờ mỗi lần hỏi mỗi lần đáp, đều khiến lão tức gần chết.
Cứ theo lẽ thường mà xét, người bình thường tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo, với độ đơn giản của tầng thứ nhất, sau ba tháng đều phải có chút thành tựu, sơ bộ dẫn được linh khí trời đất nhập thể, vận hành được ba đến năm huyệt đạo.
Ai dè cái kém cỏi của Trương Tiểu Phàm thật là hiếm có. Tu luyện đã ba tháng tròn, mà đến khổng khiếu toàn thân cũng không thể khống chế như ý, dẫn linh khí nhập thể thì gượng gạo, nói gì đến việc vận hành vài huyệt đạo.
Điền Bất Dịch mở to mắt, bộ mặt giận dữ nhìn chằm chằm vào Trương Tiểu Phàm, chúng đệ tử bên cạnh đều có vẻ thông cảm, nhưng không dám nói gì, Tống Đại Nhân vốn cũng muốn đỡ hộ Trương Tiểu Phàm một hai câu, nhưng thấy sư đệ do mình dạy dỗ lại luyện tập đến cái mức như thế này, mặt mày mất hết thần sắc, thành ra không dám mở miệng nữa, còn Điền Linh Nhi thì cười hi hi đứng cạnh xem chuyện vui.
Trương Tiểu Phàm mặt đầy nỗi hổ thẹn, quỳ xuống trước Điền Bất Dịch, chẳng có chỗ nào để trốn tránh, trong lòng nghĩ bất luận sư phụ trách mắng thế nào, đều là phải lẽ cả. Ai ngờ đợi mãi một lúc lâu, sư huynh xung quanh không hé một tiếng, mà Điền Bất Dịch cũng chẳng thốt lời nào, nó lấy làm lạ, len lén ngửng đầu lên nhìn, thì thấy bộ mặt giận dữ của Điền Bất Dịch, không biết từ lúc nào đã biến ra bộ mặt thất vọng, thật ứng với câu nói: Đúng là chết cả cõi lòng!
Điền Bất Dịch phất tay áo đứng dậy, lắc đầu, rồi lê cái thân hình béo lùn, chẳng nói chẳng rằng đi về phía hậu điện. Bọn đệ tử liếc nhìn nhau, chẳng hiểu thế là thế nào.
Tống Đại Nhân ở với Điền Bất Dịch lâu nhất, ngấm ngầm đoán biết được những suy nghĩ trong lòng lão ta, hiểu rằng sư phụ đang muốn rũ bỏ tiểu sư đệ này. Ba tháng nay, Trương Tiểu Phàm ngoài việc tu hành và làm bài tập, những lúc rỗi rãi thì tíu ta tíu tít vui vẻ giúp đỡ người khác, tính tình rất thực thà, mọi người ai cũng quý. Sống trong núi tịch mịch, Điền Linh Nhi xưa nay vốn ngạo túng, đột nhiên ở đâu nảy ra một người bạn vui đùa xấp xỉ tuổi mình, tuy ngoài mặt luôn chỉ trích quát mắng, nhưng trong lòng cũng thấy mấy phần ưa thích.
Tống Đại Nhân chau mày, đi lên trước đỡ Trương Tiểu Phàm dậy, nói: “Tiểu sư đệ, sư phụ chỉ là giận dữ nhất thời thôi, không sao đâu. Chỉ cần đệ tu tập chăm chỉ hơn, sớm muộn gì cũng có lúc lão nhân gia người chấp nhận.”
Trương Tiểu Phàm hổ thẹn, gật đầu lia lịa, tự lúc ấy càng ra sức cố gắng.
Mỗi ngày từ sáng sớm nó cùng Điền Linh Nhi lên núi chặt trúc, đệ tử bình thường tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo sau ba tháng đã có thể chặt gãy được Hắc Tiết Trúc, Trương Tiểu Phàm thì đến hơn nửa năm mới chặt được cây trúc đầu tiên. Có điều mỗi ngày bất kể mưa gió, thân thể nó nhờ rèn luyện mà trở nên khoẻ mạnh, ít nhất lên núi cũng không đến nỗi thở hồng hộc như trâu.
Từ lần đó trở đi, Điền Bất Dịch chẳng nghe chẳng hỏi gì đến Trương Tiểu Phàm nữa, Tống Đại Nhân ban đầu còn xem xét tình hình tu tập của nó, có điều bao lâu trôi qua, tiến cảnh của Trương Tiểu Phàm vẫn chậm chạp đến nỗi không thể nào chậm chạp hơn, cuối cùng Tống Đại Nhân cũng chán nản, không buồn hỏi.
Trương Tiểu Phàm thì chẳng để ý đến chuyện đó, biết mình tư chất không tốt, tuy đôi lúc cũng nghĩ có khi hai loại pháp môn này không thể nào cùng nhau tu luyện đến nơi đến chốn được, nhưng mỗi lần nhắc tới chuyện này, nó đều nhớ lại khuôn mặt và giọng nói của Phổ Trí hoà thượng, trong lòng chợt bừng bừng, bèn kiên trì học tiếp. Tuy luyện tập theo kiểu này gian nan vô cùng, nhưng tính nó cứng cỏi quật cường, vẫn không hề buông xuôi. Nơi nó ở vắng vẻ yên tĩnh, ban ngày tu hành Thái Cực Huyền Thanh Đạo, đêm xuống lại luyện Đại Phạm Bát Nhã, thời gian dài lâu thấm thoắt trôi, chẳng mấy chốc đã ba năm.
Chính vào khoảng thời gian này, Trương Tiểu Phàm cũng lập được một kỷ lục tồi tệ nhất trong Thanh Vân Môn kể từ thời khai sáng: nó đã dùng đủ ba năm, tức là dùng gấp ba số thời gian cho một người bình thường, mới hoàn thành tầng thứ nhất trong Ngọc Thanh Cảnh của Thái Cực Huyền Thanh Đạo, tức là có thể tuỳ ý khống chế khổng khiếu toàn thân, dẫn linh khí trời đất nhập thể vận hành ba mươi sáu huyệt đạo. Nhưng điều mà mọi người không biết là đồng thời trong việc rèn tập Đại Phạm Bát Nhã, nó cũng đã mấp mé ở ngưỡng cửa khống chế nội khí, tạo được một căn cơ vững chắc.
Một buổi tối lúc ăn cơm, khi Trương Tiểu Phàm rụt rè thông báo với mọi người chuyện này, tất thảy đệ tử của Đại Trúc Phong đều há hốc miệng, như nhìn thấy một cây sắt ngàn năm nay nở hoa, rồi liền đó cùng phá lên cười rõ to, Tống Đại Nhân thì ôm lấy Trương Tiểu Phàm giờ đã lớn ra nhiều tung lên không trung, liên tiếp mấy lần liền, rất là vui sướng. Nhưng Điền Bất Dịch ngồi đầu bàn chỉ lạnh lùng nhìn, hừ một tiếng, rồi khẽ chửi: “Đầu đất!”
Trong ba năm đó, Trương Tiểu Phàm đã được mười bốn tuổi, vì mỗi ngày đều đi chặt trúc nên thân hình rất khoẻ mạnh, tuy ít hơn sư tỷ Điền Linh Nhi hai tuổi, nhưng lại cao hơn đến một cái đầu. Điền Linh Nhi thì từ một cô gái nhỏ mười ba tuổi, đã lớn lên thành một thiếu nữ mười sáu, dung mạo thêm diễm lệ, lúc nói cười trông vẻ càng thanh tú. Điền Linh Nhi xưa nay đều cảm thấy sáu vị sư huynh lớn hơn mình nhiều quá, lại bần thần không sức sống, nên thường thích ở cùng với gã sư đệ ngớ ngẩn ngốc nghếch, ba năm qua, tình cảm thân mật vô cùng. Xưa nay lúc nào Điền Linh Nhi cũng chiếm thế thượng phong, Trương Tiểu Phàm cảm thấy sư tỷ quả thật hơn mình quá nhiều, tuy ngày thường hay đùa nghịch chọc phá, nhưng thi thoảng mình bị sư huynh trêu ghẹo, sư tỷ lại là người đầu tiên đứng lên bênh vực, ủng hộ mình.
Trong núi tịch mịch, nhưng cũng thanh tịnh, Trương Tiểu Phàm đã hỏi Điền Bất Dịch và Tống Đại Nhân mấy lần về vụ thảm án thôn Thảo Miếu, nhưng chuyện đó đến nay chẳng còn tìm ra đầu mối, thời gian lâu dần, Trương Tiểu Phàm cũng dần dần bớt sốt sắng.
Sáng sớm hôm ấy, Trương Tiểu Phàm theo lệ thường cầm lấy con dao chặt củi, một thân một mình đi ra khỏi phòng, nhằm hướng hậu sơn mà bước. Điền Linh Nhi từ hai năm nay đã hoàn thành bài tập chặt trúc, không còn đi nữa, vì vậy Trương Tiểu Phàm thường lên núi một mình, có điều lúc nào rỗi, Điền Linh Nhi cũng chạy lên theo chơi đùa với Trương Tiểu Phàm.
Hôm nay Trương Tiểu Phàm chẳng thấy bóng Điền Linh Nhi đâu, nhưng cũng không để ý lắm, cứ thế đi lên núi, thêm một tháng nữa là có thể kết thúc bài tập chặt trúc. Bây giờ mỗi ngày hắn đã chặt được hai cây Hắc Tiết Trúc, nhưng vẫn còn kém xa Điền Linh Nhi, hồi đầu Điền Linh Nhi đã kết thúc rất nhanh, một ngày có thể chặt đến mười mấy cây.
Một tháng trước, cuối cùng hắn cũng đã tu xong tầng thứ nhất trong Ngọc Thanh Cảnh của Thái Cực Huyền Thanh Đạo, kế đó Tống Đại Nhân truyền thụ cho hắn yếu quyết của tầng thứ hai. Hắn tập được một tháng, tuy tầng thứ hai thâm ảo hơn tầng thứ nhất nhiều, nhưng chẳng hiểu tại sao, hắn ngấm ngầm cảm thấy còn dễ dàng hơn.
Chẳng hạn tầng thứ nhất cần khống chế khổng khiếu toàn thân, hắn luyện đủ ba năm mới có được chút thành tựu, nhưng tầng thứ hai yêu cầu “hoá khí vi tinh”, tức là biến linh khí trời đất dẫn nhập vào cơ thể thành tinh khí trong kinh mạch. Theo như đại sư huynh nói, bài này khó hơn tầng thứ nhất không chỉ mười lần, nhưng Trương Tiểu Phàm tự thấy là nhẹ nhàng vượt xa tưởng tượng.
Xét đến căn nguyên, chắc có liên quan với bộ “Đại Phạm Bát Nhã”, ba năm nay mỗi ngày hắn đều tu tập Đại Phạm Bát Nhã không hề gián đoạn, vận hành nội khí cũng đã hơi có hoả hầu, mà tinh khí thì thuộc nội khí, có căn bản ba năm rồi, tiến cảnh của Trương Tiểu Phàm thành ra cực nhanh.
Chỉ có điều hắn không tin lắm vào bản thân, lúc đầu người xung quanh luyện mất một năm thì hắn luyện mất ba năm, lần này chắc quá nửa là cảm giác sai rồi. Vì vậy hắn cũng chẳng để ý nữa, có điều mỗi ngày vẫn theo đúng giờ giấc tu tập, trước nay cũng chẳng có ai lai vãng làm phiền.
Thông tin truyện | |
---|---|
Tên truyện | Tru Tiên |
Tác giả | Chưa xác định |
Thể loại | Truyện nonSEX |
Phân loại | Truyện cổ trang |
Tình trạng | Chưa xác định |
Ngày cập nhật | 16/03/2015 06:38 (GMT+7) |